- Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, đến hết tháng 7-2011, châu Á tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của nước ta với kim ngạch XNK đạt 72,67 tỷ USD, chiếm 65,8% tổng kim ngạch XNK của cả nước. Đối với các châu lục khác, cán cân thương mại của Việt Nam đều thặng dư, cụ thể: châu Mỹ hơn 7 tỷ USD; châu Âu 5,86 tỷ USD; châu Phi 1,88 tỷ USD, châu Đại Dương 37 triệu USD. Những mặt hàng XK chính Hàng thủy sản: XK thủy sản của Việt Nam trong tháng 7 đạt gần 559 triệu USD, tăng 7,6% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch XK trong 7 tháng lên 3,18 tỷ USD, tăng 28,1% so với cùng kỳ năm 2010. Các thị trường chính nhập khẩu nhóm hàng này của nước ta là EU với 765 triệu USD, tăng 22,3%; Hoa Kỳ đạt 597 triệu USD, tăng 43,1%; Nhật Bản đạt 469 triệu USD, tăng 2,2% và Hàn Quốc đạt 250 triệu USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2010. Gạo: Tính đến hết tháng 7-2011, lượng XK nhóm hàng này là 4,7 triệu tấn, tăng 8,6% và trị giá đạt 2,32 tỷ USD, tăng 10,3% so với 7 tháng 2010. XK gạo của Việt Nam chủ yếu tập trung các thị trường: Philippines 816 nghìn tấn, giảm 44,2%; Indonesia 728 nghìn tấn (7 tháng năm 2010 là 17 nghìn tấn); Malaysia 363 nghìn tấn, tăng 79,8%; Senegan 352 nghìn tấn, tăng gấp gần 4 lần; Cu Ba 305 triệu USD, tăng 20,8%; Bangladesh 280 nghìn tấn, tăng 90,7% so với cùng kỳ năm trước. Cà phê: Tính đến hết 7 tháng năm 2011, lượng cà phê XK của nước ta đạt 917 nghìn tấn, trị giá 2,02 tỷ USD, tăng 17,6% về lượng và tăng 82,8% về trị giá so với 7 tháng năm 2010, tương ứng tăng 915 triệu USD. Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của nước ta trong 7 tháng qua là EU: 373 nghìn tấn, tăng 21,2% và chiếm 40,7% tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; tiếp theo là Hoa Kỳ 94 nghìn tấn, tăng nhẹ 0,7%; Nhật Bản 32 nghìn tấn, giảm 11,9%... so với 7 tháng năm 2010. Cao su: Tính đến hết tháng 7-2011, tổng lượng XK mặt hàng này của cả nước đạt 369 nghìn tấn, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước, trị giá đạt 1,6 tỷ USD, tăng 77% so với cùng kỳ năm 2010. Dầu thô: lượng dầu thô XK của nước ta đạt 4,83 triệu tấn trong 7 tháng năm 2011, giảm 1,6% và kim ngạch đạt 4,26 tỷ USD, tăng 43,7% so với cùng kỳ năm 2010. Than đá: Sau 3 tháng liên tiếp lượng XK nhóm hàng than đá ở mức trên 2 triệu tấn/tháng, XK nhóm hàng này trong tháng 7-2011 đã giảm mạnh so với tháng trước xuống còn 1,17 triệu tấn, giảm 44,5%. Tính đến hết tháng 7-2011, lượng XK than đá của cả nước là hơn 10 triệu tấn, giảm 15,2% với trị giá là 958 triệu USD, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2010. Hàng dệt may: XK nhóm hàng dệt may trong tháng 7 đạt 1,35 tỷ USD, tăng 2,8% so với tháng 6-2010, nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng năm 2011 lên 7,6 tỷ USD, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm 2010. Kim ngạch XK hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 3,83 tỷ USD, tăng 16,1%; sang EU đạt 1,46 USD, tăng 48,3%; sang Nhật Bản đạt 859 triệu USD, tăng 47,2% và sang Hàn Quốc 379 triệu USD, tăng 2,4 lần so với 7 tháng năm 2010. Điện thoại các loại và linh kiện: Tổng trị giá XK nhóm hàng này trong 7 tháng đạt 2,59 tỷ USD, tăng hơn 2,9 lần so với cùng kỳ năm 2010, vươn lên trở thành nhóm hàng XK có kim ngạch lớn thứ 5 của cả nước. Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng: Trong tháng 7-2011, trị giá XK nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 337 triệu USD, tăng 0,4% so với tháng 6-2010, nâng tổng trị giá XK nhóm hàng này trong 7 tháng lên gần 2 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2010. Giày dép các loại: Tổng trị giá XK nhóm hàng giày dép trong 7 tháng đạt 3,63 tỷ USD, tăng 31,2% so với cùng kỳ năm 2010. Những mặt hàng NK chính Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: Tổng trị giá nhập khẩu nhóm mặt hàng này trong 7 tháng năm 2011 đạt 8,31 tỷ USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ 2010. Trong đó, khu vực FDI NK 3,4 tỷ USD, tăng 26,8% và các doanh nghiệp trong nước NK 4,9 tỷ USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Xăng dầu các loại: Hết 7 tháng, tổng lượng xăng dầu NK của cả nước là 6,55 triệu tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2010 với trị giá là 5,92 tỷ USD, tăng 51%. Phân bón các loại: Tính đến hết tháng 7 năm 2011, lượng NK nhóm hàng này đạt 2,21 triệu tấn, tăng 34,3%, trị giá đạt 888 triệu USD, tăng 69,8% so với cùng kỳ năm 2010. Chất dẻo nguyên liệu: Hết tháng 7 năm 2011, tổng lượng NK nhóm hàng này là 1,42 triệu tấn, tăng 8,6%, trị giá đạt 2,67 tỷ USD, tăng 29,7% so với cùng kỳ năm trước. Điện thoại các loại và linh kiện: Tổng kim ngạch nhóm hàng này trong 7 tháng đạt 1,16 tỷ USD, tăng mạnh 57,3% so với cùng kỳ năm trước. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Tổng trị giá NK nhóm hàng này trong 7 tháng năm 2011 là 3,31 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm 2010. Trong 7 tháng 2011, NK nhóm hàng này chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc 1,08 tỷ USD, tăng 26,2%; Hàn Quốc 791 triệu USD, tăng 128%; Nhật Bản 529 triệu USD, giảm 4,9%; Malaysia 216 triệu USD, tăng 11% so với 7 tháng năm 2010. Nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày: Tính đến hết 7 tháng năm 2011, trị giá NK nhóm hàng này là 7,3 tỷ USD, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm 2010 (cao hơn mức tăng 30,5% của XK sản phẩm dệt may và giày dép). Sắt thép các loại: Hết 7 tháng năm 2011, tổng lượng NK sắt thép của Việt Nam là 4,24 triệu tấn, giảm 11,5%, kim ngạch là 3,64 tỷ USD, tăng 11,2%. Trong đó, lượng phôi thép là 650 nghìn tấn, giảm 42% với trị giá là 423 triệu USD. Phế liệu sắt thép: Lượng NK phế liệu sắt thép trong 7 tháng năm 2011 là 1,38 triệu tấn, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 623 triệu USD, tăng 49,6%. |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.